Thần Đất - Ông Địa & Thần Tài
Sự hình thành của đất, nói rộng ra là của núi non, gò nồng, ruộng rẫ là đối tượng phản ảnh trong hầu hết các thần thoại sáng thể, và rồi đất là nơi cư trú vả nuôi dưỡng muôn loài. Do đó, đất trở thành đối tượng sủng tin của con người.
Trong phần lớn ngôn ngữ, đất có nhiều từ chỉ định, phổ biến là nhất là hai từ, ví dụ: Thổ và Địa. Ở đây, Địa là tử chỉ đất với tư cách là địa lý, địa chính, tức chi một khu vực đất có giới hạn. Còn Thổ là từ chỉ thuộc tính bản thể của đất - gọi là Thổ đức. Nó là một nguyên tố trong bộ nhân nguyên tố ngũ hành: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ, hoặc là một đại trong tứ đại: Đất, Nước, Lửa, Gió.
Đặc Khảo Về Tín Ngưỡng Thờ Gia Thần do hai nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng và Nguyễn Đại Phúc biên soạn, không chỉ cung cấp cho bạn đọc cái nhìn tổng quan về văn hóa thờ tự trong ngôi nhà Việt mà còn lý giải sâu sắc về đặc trưng văn hóa tâm linh của người Việt. Với một nội dung khoa học được trình bày dễ hiểu, hấp dẫn, chắc chắn Đặc khảo về tín ngưỡng thờ gia Thần sẽ lôi cuốn độc giả đến trang sách cuối cùng.
Gốm Sài Gòn là tên gọi để chỉ một dòng sản phẩm gốm sứ ra đời từ những thập niên đầu thế kỷ XX. Tuy nhiên, trong thực tế việc sử dụng tên gọi “Gốm Sài Gòn” có phần tùy tiện và không có sự nhất trí nhau: hoặc để chỉ chung cho các sản phẩm của tất cả các dòng sản phẩm gốm sứ đã được sản xuất ở Sài Gòn - Chợ Lớn (hiểu là địa bàn thuộc Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay), hoặc để chỉ dòng sản phẩm gốm sứ bạch dứu ra đời vào nửa đầu thề kỷ XX. Dù được dùng theo nghĩa nào, thì dòng gốm Sài Gòn đến nay vẫn chưa có công trình nghiên cứu nào xác định về lịch sử, chủng loại, đặc điể của chúng. Tập sách này là nỗ lực bước đầu nhằm cung cấp những dữ liệu cần thiết để có được hiểu biết cơ bản về Gốm Sài Gòn.
Để biên soạn tập sách nhỏ này, chúng tôi đã nhận được sự giúp đỡ và chỉ dẫn tận tình của các nhà sưu tập gốm Nam bộ.
Nhân đây, xin được gởi lời tri ân; đặc biệt cảm ơn các nhà sưu tập Lê Nhân Kiệt, Huỳnh Thanh Giang, Đỗ Quyê đã tạo điều kiện thuận lợi cho chúng tôi được tiếp xúc với các sản phẩm gốm Sài Gòn để nghiên cứu cũng như chia sẻ những kiến thức liên quan đến dòng gốm sứ này.
Nhóm Biên soạn
Dự án Sưu tầm – Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm nhiều tập của hai tác giả Huỳnh Ngọc Trảng và Phạm Thiếu Hương thuộc chương trình “Tìm về nét Việt”, dự án Sưu tầm – Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ được Quỹ Hoa Sen cấp ngân sách tài trợ với thời gian thực hiện trong ba năm, từ năm 2017 đến năm 2019, dựa trên nguồn hỗ trợ tài chính từ Công ty Karaoke Nice, Quán sách Mùa thu, cùng các thân hữu và bạn đọc tham gia các hoạt động tại Đường sách Thành phố Hồ Chí Minh.
Cuối năm 2019, dự án Sưu tầm - Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ hoàn thành, nghiệm thu và được NXB Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM đưa vào kế hoạch xuất bản năm 2020. Tháng 7 năm 2020, bốn quyển đầu tiên của Tập 1 trong bộ tổng tập 7 tập 12 quyển chính thức trình làng bạn đọc gần xa. Tuy nói rằng nhóm tác giả tập trung trong ba năm, song thực tế công trình đã được tích lũy trong hàng nhiều năm nghiên cứu điền dã, sưu tầm, và ba năm chính là thời gian tiếp tục khảo sát, hệ thống, sắp xếp, biên soạn và hoàn chỉnh. Có thể nói đây là một công trình công phu, tâm huyết, giá trị.
Rõ ràng, việc sưu tầm – biên soạn một Tổng tập Văn học dân gian ở một vùng đất không chỉ là việc thu gom đơn giản và tùy tiện, mà bao gồm nhiều thao tác nghiêm túc, khoa học, từ việc chọn lựa – xử lý văn bản, đến việc khảo dị, chú giải tên người, tên đất, sự vật, sự việc, sự kiện lịch sử, văn hóa – xã hội... trong văn bản. Mặt khác, sau khi biên soạn các tập thành văn bản cho mỗi thể loại, cũng rất cần thiết tiến hành nghiên cứu chúng cốt đưa ra những thông tin, những nhận định có tính tổng kết. Đó là những tiểu luận khoa học trình bày rõ nguồn gốc, lịch sử, nội dung, đặc điểm, tính chất của các thể loại thuộc kho tàng văn học dân gian ở vùng đất mới phương Nam này.
Nói chung, Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ là một sưu tập nhằm cung cấp tư liệu cho việc tìm hiểu, nghiên cứu. Một mặt, bộ sách góp phần làm phong phú kho tàng văn học dân gian của dân tộc; và mặt khác, từ đó, hiểu thêm về các khía cạnh lịch sử văn hóa – xã hội, đất và người Nam bộ.
Dự án Sưu tầm – Biên soạn bộ Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm 7 tập và thực hiện trong 3 năm.
Tập 1: Truyện kể dân gian Nam bộ
Tập 2: Ca dao - Dân ca Nam bộ
Tập 3: Vè Nam bộ
Tập 4: Tuồng tích sân khấu và Diễn xướng dân gian Nam bộ
Tập 5: Tục ngữ
Tập 6: Truyện thơ và thơ vè lục tỉnh Nam Kỳ
Tập 7: Đồng dao và câu đố
Riêng tập 1 (4 quyển) với chủ đề truyện kể dân gian Nam bộ gồm các thể tài sau đây:
Quyển 1: Sự tích thần kỳ và hoang đường; Cổ tích
Quyển 2: Truyền thuyết địa danh và thôn làng; Truyền thuyết thú dữ; Truyền thuyết lịch sử thuộc thời Chúa Nguyễn, Tây Sơn và nhà Nguyễn; Truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa chống Pháp; Truyền thuyết về chư tăng và các ông Đạo
Quyển 3: Giai thoại văn nghệ; Cố sự thời thuộc địa
Quyển 4: Truyện ngụ ngôn; Truyện cười; Truyện Trạng
Kho tàng truyện ngụ ngôn dân gian Nam bộ về cơ bản, thuộc dòng truyện ngụ ngôn dân gian truyền thống. Tức đó là các truyện ngắn bao gồm một tích truyện được kể nhằm đưa ra một thông điệp về nhân sinh, một kết luận luân lý, triết lý hay một ý răn đời hoặc một nhận xét về thực tế. Chủ đề hoặc để đề cao trí thông minh, phẩm chất chính trực, sự khôn ngoan, lòng nhân ái...hay giễu cợt, châm biếm thói đời xấu xa, nhân tình thế thái đầy ý vị.
Ở tập hợp các truyện ngụ ngôn sưu tầm được ở miền Tây Nam bộ, đặc biệt loạt truyện ngụ ngôn nói về thỏ, chó sói, rái cá, chồn, voi, chim sẻ... rất dễ nhận ra đây là truyện ngụ ngôn gốc từ kho tàng văn học dân gian của đồng bào Khmer, thậm chí có một số truyện vốn từ truyện ngụ ngôn Ấn Độ mà nguồn gốc cụ thể là từ tập truyện Sri Hiptopatế (Hiptopadesa), dị bản Nam Ấn của bộ truyện ngụ ngôn lừng danh Panchatantra.
Hiển nhiên là do quá trình cộng cư chan hòa của người Việt và người Khmer là tiền đề khởi tạo nên hiện tượng giao lưu – tiếp biến văn hóa này. Điều này đã làm phong phú đáng kể cho kho tàng truyện ngụ ngôn dân gian Nam bộ.
...
Truyện cười ở Nam bộ, theo cách phân loại thông thường, có thể phân thành hai loại: truyện khôi hài và truyện trào phúng.Tập hợp truyện khôi hài có hình thức như là những “trích đoạn” ngắn từ những sự việc xảy ra đây đó trong sinh hoạt hàng ngày: Tiếng cười được tạo ra là do một hành vi, một cử chỉ thất thường hay do vụng về trong lời đối thoại.
Các đối thoại diễn ra thì lời nói gây cười là câu nói ở đó xuất hiện một từ/cụm từ làm người nghe hiểu lệch hướng qua một nội dung khác. Đó có thể là cách chơi chữ kiểu “nhất tự lục nghĩa” tức cũng là từ đó, cụm từ đó được mở ra nhiều cách hiểu khác nhau, hướng sự việc được hiểu theo cách hài hước. Lại cũng phổ biến là cách cố ý đọc sai một số chữ Hán để sau đó đính chính lại nhằm biểu đạt ý kiến phê phán thói xấu nào đó của thế nhân.
Thêm nữa, cách đọc trại những câu châm ngôn chữ Hán vốn có ý nghĩa nghiêm túc thành ra câu nói nôm na thông tục dẫn đến một trường ngữ nghĩa cực kỳ táo tợn, thậm chí biến “thanh” thành “tục”...
Loại truyện khôi hài cũng thâu tóm các hành vi vụng về làm đối tượng phản ánh của mình. Ở đó, mỗi câu chuyện kể lại một sự việc và qua đó phơi bày các thói hư tật xấu của các hạng người trong xã hội đồng thời cũng hàm ý phê phán những tật xấu của các loại hạng ấy như thói ham mê cờ bạc, thói đĩ thõa, keo kiệt, hà tiện, hèn nhát, tham lam, dốt nát. Ở đây, tiếng cười dừng lại ở sự trào lộng hơn là đả kích như trong tập hợp truyện trào phúng,Truyện trào phúng là truyện châm biếm mang đậm ý nghĩa nhân sinh, được coi là tiếng cười xã hội. Ở đó, mũi nhọn tập trung vào các mối quan hệ xã hội trong các nhóm xã hội cụ thể.
…
3. Một số truyện thuộc hệ thống truyện Trạng Quỳnh đã xuất hiện ở vùng đất này năm 1866 trong tập Chuyện đời xưa của Trương Vĩnh Ký và truyện Ba Giai - Tú Xuất, sau đó, cũng xuất hiện trong tập Chuyện khôi hài cũng của tác giả này, xuất bản năm 1882. Đây là chứng cớ cho thấy kiểu truyện trạng ở miền Bắc đã có mặt ở phương Nam. Chúng ta không có bằng chứng cụ thể, nhưng có thể dự đoán được rằng những khuôn mẫu của truyện trạng từ miền Trung, miền Bắc cũng đã theo chân những lưu dân vào đây từ khá lâu đời. Đều đó giải thích sự tương đồng của những mẫu đề của truyện cười và truyện trạng ở Nam bộ với các truyện trạng truyền thống và xác định truyện trạng Nam bộ kế thừa và phát triển dòng truyện trạng Việt ở một tọa độ địa lý – lịch sử mới.
Đến nay truyện trạng Nam bộ gồm truyện Thằng Dày, truyện Tư Nụm, truyện Ông Ó, truyện Ông Me, truyệnBảy Lẹ, truyện Bộ Ninh, truyện Tám Cồ, truyện Tám Chợ, truyện Hồng Cẩm Miêu và truyện Bác Ba Phi. Ngoài ra, chúng ta cũng được biết đến các ông trạng ở các miệt khác như Ông Cheo, Trùm Pho, Mười Công ở vùng Thủ Dầu Một xưa hay ở đất Gia Định xưa, nhưng số lượng truyện của các ông trạng này hầu như đã thất truyền, chỉ còn một vài truyện mà nay có thể sưu tầm được như truyện Ông Cheo đẽo cẳng lấy dăm nấu nước pha trà, truyện Ông Mười Phoăn thịt cheo nướng chấm cát thay vì muối, truyện Ông Mười Công kể về con sáo biết nói của bà nội... Đa phần các truyện trạng Nam bộ, không nhiều thì ít chen lẫn với một số truyện cười đậm chất trào lộng hơn là trào phúng.
+ TRUYỆN NGỤ NGÔN
- MẮT VÀ MŨI; CON GÁI CẦU CHỒNG ĐẠI VƯƠNG; ĐẠI TRƯỢNG PHU, CHÍ QUÂN TỬ VỚI PHÚ TRƯỞNG GIẢ; NGÀY CUỐI CÙNG THÀNH PHẬT; LÀM ƠN MẮC OÁN CỨU VẬT, VẬT TRẢ ƠN; MƯU TRÍ HƠN LÀ SỨC MẠNH; TU THẬT - TU GIẢ; PHƯỢNG HOÀNG HAI ĐẦU; THÀ IM CÒN HƠN NÓI; GIEO GIÓ GẶP BÃO...
+ TRUYỆN CƯỜI
* TRUYỆN KHÔI HÀI
* LỜI NÓI
* HÀNH VI
* CỬ CHỈ
* TẬT
* TRUYỆN TRÀO PHÚNG
TRÀO PHÚNG 1-2-3-4: THÓI HƯ TẬT XẤU CÁ NHÂN (GIA ĐÌNH - TRONG LÀNG NGOÀI NGÕ - HƯƠNG CHỨC VÀ QUAN LẠI)
+ TRUYỆN TRẠNG
TRUYỆN THẰNG DÀY; CHUYỆN THẰNG DÀY; TRUYỆN ÔNG Ó; TRUYỆN BỘ NINH; TRUYỆN TÁM CỒ; TRUYỆN ÔNG ME; TRUYỆN BẢY LẸ; TRUYỆN TÁM CHỢ; HỒNG CẨM MIÊU; TRUYỆN BA PHI…
Trích TỔNG QUÁT VỀ CỘI NGUỒN VÀ DIỆN MẠO
Nam bộ là vùng đất mới. Thời lượng lịch sử, tính đến nay chỉ trên dưới ba trăm năm là một trong những nhân tố quyết định xác lập những đặc trưng văn hóa của vùng đất này cũng như đặc điểm của văn học dân gian, trong đó có kho tàng truyện dân gian. Tuy nhiên, văn hóa Nam bộ lại không mới nếu hiểu theo nghĩa nó không phải bắt đầu từ con số không mà là sự phát triển những truyền thống văn hóa cổ xưa của dân tộc ở một không gian mới có những điều kiện tự nhiên và lịch sử – xã hội cụ thể. Chính vì vậy nên chúng ta có thể tìm thấy được những di tích các mẫu đề xa xưa trong kho tàng truyện dân gian ở đây.
Trong Gia Định thành thông chí, sách viết hồi đầu thế kỷ XIX, khi nói về núi Bà Dinh/Bà Đen (tức núi Điện Bà, Tây Ninh), tác giả Trịnh Hoài Đức có chép lời tục truyền về việc “trông thấy cái chuông vàng nơi đáy hồ giống như việc cái khánh ở sông Tứ, cái chuông thấy được ở sông Giang, nhưng đến gần thì biến mất. Lại có đêm trời quang mây tạnh, thấy có thuyền rộng bơi lượn, hát múa du dương, lại thấy con rùa vàng lớn hơn một trượng bất thời bơi lặn trong hồ”. Truyền thuyết này khiến cho chúng ta liên tưởng đến cái chuông nằm dưới đáy Hồ Tây, đến con rùa ở Hồ Hoàn Kiếm của đất Thăng Long và dường như con rùa đây cũng là hồi quang của con rùa vàng – thần Kim Qui, trong truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy... Và rồi, ở truyền thuyết mang tính chất từ nguyên địa danh dân gian về tên gọi sông Cổ Chiêng cũng thấy dấu ấn của mẫu đề “cái chuông chìm dưới nước” và trong những khoảng khắc thiêng liêng của trời đất, cái “Chiêng Cổ” ấy lại vang lên, dội vào lòng người dân miệt hạ lưu sông Cửu Long. Trường hợp tương tự là truyền thuyết về các đại đồng chung ở Vĩnh Thành (Cái Mơn, Bến Tre), ở vùng Chợ Gạo (Gò Công, Tiền Giang), ở chùa Gò (tức Phụng Sơn tự, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh)...
Lại nữa, nếu không bắt nguồn từ những mẫu đồ thần thoại về loài giao long, thủy quái, thuồng luồng xa xưa thì không có lý gì con sấu hung ác ở Bến Tre lại được gọi là... “Ông Luồng sông
Tiên Thủy”. Tương tự đây đó, trong một số truyền thuyết, chúng ta lại gặp cái nón có phép đưa chủ qua sông (Thầy Trung ở Cần Thơ, Bà Thầy ở Bến Tre...) giống chiếc nón tu lờ của Không Lộ.
Lại có nhiều chuyện nhắc đến con trâu trắng có phép rẽ nước mà đi xuống thủy cung tương tự như các truyền thuyết kể về những người có tài bơi lặn, nhờ được cái lông trâu trắng trong kho tàng chuyện cổ tích truyền thống.
Phổ biến không kém là dấu vết về ông Khổng Lồ. Truyện ông Khổng Lồ cưới bà Nữ Oa làm vợ mà chúng ta đã biết, dường như có một phụ bản là Sự tích tảng đá trên cây dầu ở Trại Bí(Tây Ninh) và ở nhiều nơi, từ vùng núi non Long Thành – Bà Rịa đến Hà Tiên – Bảy Núi (Long Xuyên), đều có dấu chân ông Khổng Lồ. Như vậy, các mẫu đề thần thoại đã được bảo lưu, nhưng cũng đã biến đổi đi rồi. Sự việc tảng đá nằm trên cháng ba cây dầu ở Trại Bí thì ai cũng biết là do cây dầu ấy thoạt đầu thì mọc dưới tảng đá và rồi những nhánh của nó, theo thời gian tăng trưởng, nâng tảng đá ngày một lên cao. Nhưng sự thật là sự thật. Còn dân gian thì họ suy nguyên theo kiểu khác là gán việc ấy cho ông Khổng Lồ, theo tâm thức truyền thống: đó là một con người to lớn, có sức mạnh dời non lấp biển. Còn dấu chân ông Khổng Lồ là hình lõm giống một dấu chân lớn in sâu trên đá núi thế thôi, cũng như ngược lại dấu chân bé nhỏ in trên đá là dấu chân tiên ở núi Chơn Tiên (Bà Rịa). Các giải thích này coi ra kiểu cách giống như các bàn thờ tiên trên các cụm núi ít ỏi ở miền đất này. Cách lý giải như vậy là sự suy nguyên giản đơn: cái gì không phải do con người làm ra thì được gắn cho là do các đấng siêu phàm tạo nên. Dấu chân ông Khổng Lồ chỉ là mẩu chuyện nhỏ. Ở đây chúng ta không tìm ra được tình tiết thần kỳ nào liên quan nhân quả với dấu chân trên đá ấy, chẳng hạn như hành trạng của ông Khổng Lồ, hay một sự cảm ứng thụ thai của một phụ nữ nào đó vô tình ướm bàn chân mình lên dấu chân đó để rồi sinh ra một anh hùng siêu tuyệt...
Nói chung những mẫu đề thần thoại cổ xưa có xuất hiện đây đó trong các truyền thuyết, nhưng không nhiều và cũng không phát triển thành những sự tích hoàn chỉnh theo kiểu cách truyền thống. Chúng tồn tại như những mảnh vụn rời rạc hoặc được tích hợp vào các sự kiện này nọ nhằm suy nguyên những hiện tượng bất thường, kỳ dị hay giải thích một địa danh.
Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ - Tập 1 Quyển 2: Truyện kể dân gian Nam bộ ( Truyền thuyết địa danh và thôn xã; Truyền thuyết về giai thoại và thú dữ; Truyền thuyết lịch sử thời Chúa Nguyễn, Tây Sơn và nhà Nguyễn; Truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa chống Pháp; Truyền thuyết về Chư Tăng và các Ông Đạo)
Tác giả: Huỳnh Ngọc Trảng và Phạm Thiếu Hương (Biên soạn)
Dự án Sưu tầm – Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm nhiều tập của hai tác giả Huỳnh Ngọc Trảng và Phạm Thiếu Hương thuộc chương trình “Tìm về nét Việt”, dự án Sưu tầm – Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ được Quỹ Hoa Sen cấp ngân sách tài trợ với thời gian thực hiện trong ba năm, từ năm 2017 đến năm 2019, dựa trên nguồn hỗ trợ tài chính từ Công ty Karaoke Nice, Quán sách Mùa thu, cùng các thân hữu và bạn đọc tham gia các hoạt động tại Đường sách Thành phố Hồ Chí Minh.
Cuối năm 2019, dự án Sưu tầm - Biên soạn Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ hoàn thành, nghiệm thu và được NXB Văn hóa - Văn nghệ TP.HCM đưa vào kế hoạch xuất bản năm 2020. Tháng 7 năm 2020, bốn quyển đầu tiên của Tập 1 trong bộ tổng tập 7 tập 12 quyển chính thức trình làng bạn đọc gần xa. Tuy nói rằng nhóm tác giả tập trung trong ba năm, song thực tế công trình đã được tích lũy trong hàng nhiều năm nghiên cứu điền dã, sưu tầm, và ba năm chính là thời gian tiếp tục khảo sát, hệ thống, sắp xếp, biên soạn và hoàn chỉnh. Có thể nói đây là một công trình công phu, tâm huyết, giá trị.
Rõ ràng, việc sưu tầm – biên soạn một Tổng tập Văn học dân gian ở một vùng đất không chỉ là việc thu gom đơn giản và tùy tiện, mà bao gồm nhiều thao tác nghiêm túc, khoa học, từ việc chọn lựa – xử lý văn bản, đến việc khảo dị, chú giải tên người, tên đất, sự vật, sự việc, sự kiện lịch sử, văn hóa – xã hội... trong văn bản. Mặt khác, sau khi biên soạn các tập thành văn bản cho mỗi thể loại, cũng rất cần thiết tiến hành nghiên cứu chúng cốt đưa ra những thông tin, những nhận định có tính tổng kết. Đó là những tiểu luận khoa học trình bày rõ nguồn gốc, lịch sử, nội dung, đặc điểm, tính chất của các thể loại thuộc kho tàng văn học dân gian ở vùng đất mới phương Nam này.
Nói chung, Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ là một sưu tập nhằm cung cấp tư liệu cho việc tìm hiểu, nghiên cứu. Một mặt, bộ sách góp phần làm phong phú kho tàng văn học dân gian của dân tộc; và mặt khác, từ đó, hiểu thêm về các khía cạnh lịch sử văn hóa – xã hội, đất và người Nam bộ.
Dự án Sưu tầm – Biên soạn bộ Tổng tập Văn học dân gian Nam bộ gồm 7 tập và thực hiện trong 3 năm.
Tập 1: Truyện kể dân gian Nam bộ
Tập 2: Ca dao - Dân ca Nam bộ
Tập 3: Vè Nam bộ
Tập 4: Tuồng tích sân khấu và Diễn xướng dân gian Nam bộ
Tập 5: Tục ngữ
Tập 6: Truyện thơ và thơ vè lục tỉnh Nam Kỳ
Tập 7: Đồng dao và câu đố
Riêng tập 1 (4 quyển) với chủ đề truyện kể dân gian Nam bộ gồm các thể tài sau đây:
Quyển 1: Sự tích thần kỳ và hoang đường; Cổ tích
Quyển 2: Truyền thuyết địa danh và thôn làng; Truyền thuyết thú dữ; Truyền thuyết lịch sử thuộc thời Chúa Nguyễn, Tây Sơn và nhà Nguyễn; Truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa chống Pháp; Truyền thuyết về Chư Tăng và các ông Đạo
Thực tế, tín niệm thiên định luôn cộng tồn và xung đột với quan niệm “nhân định thắng thiên”. Rõ ràng vùng đất mới phương Nam thời khai hoang, tuy đất đai màu mỡ, nguồn thủy sản phong phú, thời tiết khí hậu thuận lợi, song còn hoang hóa, dưới sông sấu lội, trên bờ cọp um, muỗi mòng, rắn rít... là trở lực to lớn. Đó là cơ sở thực tiễn của thái độ lưng chừng giữa thiên định và nhân định.
Ở các truyền thuyết kể về nguồn gốc địa danh và lai lịch làng xã đã phản ánh những sự tích, những tấm gương của các bậc tiền bối đã “đâm hà bá phá sơn lâm” để thiết lập nên làng xã. Đó là những nỗ lực giành được thắng lợi trong công cuộc đấu tranh với thiên nhiên.
…
Một trong những loại truyện kể tiêu biểu cho công cuộc khai phá vùng đất mới là tập hợp chuyện kể về thú dữ: sấu, rắn, trâu hoang, heo rừng và đặc biệt là truyền thuyết và giai thoại về cọp. Ở đây, các truyện kể bao gồm cả truyền thuyết lẫn giai thoại – hay nói thông tục hơn là một thứ “ký sự lịch sử” bởi tính chất chỉ định về thời gian, địa điểm và tên người, tên đất cụ thể, và đặc biệt nó phản ánh chân thực thực tế lịch sử của buổi đầu khẩn hoang của từng địa phương, của từng vùng đất. Các giai thoại cười ra nước mắt về cọp đã chỉ ra nỗi ám ảnh về mối đe dọa của cọp; ở đó, có những giai thoại được xác định thời gian diễn ra mới vào những thập niên thuộc nửa đầu thế kỷ XX. Khi cộng đồng làng tổng đã biết chống cọp bằng súng chứ không thuần là võ nghệ, ví khại, gậy gộc, roi trường và gươm giáo.
…
Nếu trong tập hợp truyện kể về thú dữ, tiêu biểu là chùm truyện kể về cọp hàm chứa những tín niệm dân gian về tín ngưỡng thờ thần hổ lẫn tín niệm thiên nhân tương ứng, theo phương châm “Đạo cao long hổ phục, đức trọng quỷ thần kinh” thì trong truyền thuyết lịch sử, một biến tướng đặc dị của tín niệm “thiên nhân tương ứng” là tín niệm chủ đạo trong hàng loạt các truyền thuyết liên quan đến thời đoạn bôn ba của Nguyễn Ánh, thường gọi là thời “tẩu quốc”. Ở đó, Nguyễn Ánh được xác tín là một vị “chúng vi vương”, tức có được thiên mệnh nắm giữ ngôi báu trong tương lai. Đó là cơ sở tạo nên hàng loạt các tình tiết hoang đường về việc trên đường bôn tẩu bị quân tướng Tây Sơn truy đuổi đã được trâu đưa sang sông, được rái cá xóa dấu chân, được sấu/ cá ông hỗ trợ, được trời ban cho dòng nước ngọt khi sắp chết khát trên biển, được trời làm mưa giúp ngăn chặn, đánh lạc hướng quân Tây Sơn....
Nói chung, dù việc thêu dệt ra những truyền thuyết này là vô tình hay cố ý thì hiện tượng này đã chỉ rõ tín nhiệm “thiên nhân tương ứng” là một tín niệm phổ biến của thời đại ấy. Nói cách khác, tín niệm này là một tín niệm quan trọng định hướng cho sự ảo hóa của nhiều truyền thuyết ở vùng đất này.
…
Trong những năm cuối thế kỷ XIX, nhiều biện sự ứng hợp với các giai đoạn lịch sử cụ thể, một giai đoạn lịch sử vinh quang và đầy bi phẫn, các câu chuyện về những người anh hùng kháng Pháp lại bị chi phối bởi những tín niệm cơ trời, vận trời. Sự thật lịch sử hiển nhiên là tất cả những nỗ lực đầy nhiệt huyết nhằm đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược trong giai đoạn này đều thất bại. Thế nhưng đối với người dân Lục tỉnh, tác giả những truyền thuyết và giai thoại kháng Pháp lại lý giải theo cách riêng của họ: đất nước đang hồi bĩ cực, cơ trời chuyển xoay như vậy nên phải vậy.
…
Tín niệm thời thế này có một điểm chung với một quan niệm xuất phát từ các giáo thuyết thời thượng khác của các tôn giáo cứu thế, những tôn giáo địa phương mà giáo thuyết mang tính chất tổng hợp cả Nho, Phật, Lão đang thu hút một bộ phận dân cư Nam Kỳ trong giai đoạn nửa sau thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX.
Đặc biệt nổi bật của thời kỳ nửa cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX này là nghĩa quân thất trận và nông dân mất ruộng, cơ cấu xã hội nông nghiệp cổ truyền bị xáo trộn dữ dội, những chuẩn mực đạo đức, văn hóa truyền thống đang đối đầu với những trào lưu tân thời ngoại nhập... Do vậy dưới nhãn quan của những người ưu thời mẫn thế, sau những cuộc đấu tranh võ trang thất bại thì thực tế lịch sử – xã hội đó cũng được xác tín đúng là thời mạt pháp(theo Phật giáo) hoặc là thời hạ ngươn (tức hạ nguyên– hiểu theo dịch lý Nho – Đạo). Đây là một khẳng định có tính chất tiên tri mà Phật thầy Tây An Đoàn Minh Huyên đã phán truyền trước đó và bây giờ lại tỏ ra ứng nghiệm nên giờ đây được tiếp tục xiển dương.
Hạ ngươn Giáp tí (1864) đầu niên,
Gẫm trong thiên hạ không yên chỗ nào.
(Văn Sư Vãi bán khoai)
Theo niềm xác tín này, tín đồ các tôn giáo cứu thế Bửu Sơn Kỳ Hương, Tứ Ân Hiếu Nghĩa (và sau này là Phật giáo Hòa Hảo, Cao Đài và các ông đạo khác) cho rằng thần Phật sẽ cho một vị minh vương xuống trần để cứu đời độ thế, khuyến thiện trừng ác và lập hội Long hoa: mở ra một thượng ngươn mới. Từ đó, một loạt các ông đạo ra đời, dưới những danh xưng khác nhau với hệ thống giáo lý đôi phần dị biệt.
Trong thực tế, những người “kế vị” Phật thầy Tây An như Đức Cố Quản Trần Văn Thành, Đức Bổn Sư Ngô Lợi, cậu Hai Như, ông Cử Đa và thậm chí sau này, ông Đạo Tưởng... đều chủ trương kết hợp đạo với đời, vận dụng giáo thuyết cứu thế vào mục đích chống Pháp.
+ TRUYỀN THUYẾT ĐỊA DANH VÀ THÔN XÃ
−TRUYỀN THUYẾT VỀ THÁC TRỊ AN; SỰ TÍCH TÊN GỌI SÔNG CHÂU PHÊ; ĐẦU TÂY - ĐUÔI HEO - RUỘT NGỰA - ĐÍT LỬA; GIỒNG ÔNG TỐ; ĐỊA DANH CAO LÃNH DO ĐÂU MÀ CÓ; GIÀU NHƯ ÔNG CAI LỮ, MƯU SỰ NHƯ ÔNG THUỘC NHIÊU; TIỀN HIỀN CỦA ĐẢO PHÚ QUỐC; ÔNG GIÀ BA TRI; THẦN CẢ LÀNG KIM SƠN; ÔNG CẢ TRƯỚC Ở TRẢNG BÀNG; SỰ TÍCH CẦU THỊ NGHÈ; CẦU HƯƠNG LỄ; SỰ TÍCH HÒN CAU VÀ HÒN TRẦU; SỰ TÍCH BÃI ÔNG ĐỤNG VÀ CÂY CỎ NÀNG HAI….
+ TRUYỀN THUYẾT VÀ GIAI THOẠI VỀ THÚ DỮ
ÔNG CẢ CỌP MỸ ĐIỀN; THẦN HỔ BA CHÂN; VÌ SAO CÓ CỒN ÔNG HỔ; BÀ MỤ TRỜI; SỰ TÍCH ĐÌA BÀ THẦY; SỰ TÍCH CỌP BA CHÂN; CỌP TU; SỰ TÍCH CÙ LAO ÔNG HỔ; ÔNG BÀ BẮT CON CHÁU CON CHÁU BẮT ÔNG BÀ; CỌP BẦU LÒNG VÕ TÒNG TÂN KHÁNH; CỤ THÁM XOÀI ĐÁNH CỌP; BÀ HỚN BÀ HỞ; GIẾT CỌP GIỒNG GĂNG; SỰ; CHUYỆN ĐÁNH THUỐC CỌP; GIẾT HỔ CỨU BẠN; SỰ TÍCH BA NGÔI MỘ; NGƯỜI ĂN ONG VÀ CHÚA RỪNG; CÔ GÁI HỌ MA; SỰ TÍCH ĐỊA DANH MỎ CÀY; CỌP HÓA RA CHÓ; CON “CHỒN” Ở RẠCH GIÀ; ĂN TRỘM VÀ CỌP RÌNH NHÀ; BẮT CỌP ĂN SÁP, NGƯỜI... KHỎI CHẾT; SỰ TÍCH THẦN TRỪ THÚ DỮ ĐẤT LONG ĐIỀN; SỰ TÍCH MIẾU ÔNG CÙ; TẠI SAO CÓ ĐỊA DANH BẾN NGHÉ; ÔNG ĐÌNH TÂY VÀ CON SẤU “NĂM CHÈO”; BẠCH XÀ HẠ MÃNH HỔ; NGƯỜI THẦY RẮN Ở ĐỒNG THÁP MƯỜI…
+ TRUYỀN THUYẾT LỊCH SỬ THỜI CHÚA NGUYỄN, TÂY SƠN VÀ NHÀ NGUYỄN
MIẾU ÔNG BẦN QUÌ (SỰ TÍCH SÔNG XÁ HƯƠNG); SỰ TÍCH ĐỒNG QUAN; SỰ TÍCH TÊN GỌI RẠCH GẦM; SỰ TÍCH CHÙA SẮC TỨ LINH THỨU MỸ THO; SỰ TÍCH CHÙA SẮC TỨ TAM BẢO RẠCH GIÁ; LANG LẠI ĐẠI TƯỚNG QUÂN; SỰ TÍCH HÒN BÀ VÀ HÒN CẬU Ở CÔN NÔN; TƯỚNG CƯỚP HOẮC NHIÊN; SỰ TÍCH MIẾU ÔNG THẦN MINH; LÊ VĂN KHÔI (SỰ TÍCH ĐỒNG MẢ NGỤY); NGANG NHƯ ÔNG HOÀNH, ÔNG TRẮM; LAI LỊCH ĐỊA DANH THỦ THỪA…
+TRUYỀN THUYẾT VỀ CUỘC KHỞI NGHĨA CHỐNG PHÁP
−TRUYỆN KỂ VỀ PHAN THANH GIẢN; TÁM CHỮ GIẾT NGƯỜI; TRƯƠNG ĐỊNH VÀ NGƯỜI VỢ ĐẤT GÒ CÔNG; NGƯỜI CON GÁI BẾN NGHÉ; SỰ TÍCH ÔNG THẦN KHÔNG ĐẦU; MƯỜI TÁM DŨNG SĨ CỦA TRƯƠNG ĐỊNH; TRUYỀN THUYẾT VỀ NGUYỄN TRUNG TRỰC; ÔNG CHÁNH LÃNH BINH NGUYỄN HƯƠNG; ÔNG DẬT - ÔNG ĐÀ; NGƯU QUÂN THƯỢNG TƯỚNG; SỰ TÍCH VÀM HỔ CỨ; NGUYỄN HỮU HUÂN; TRẦN BÁ LỘC BỊ TIỀN QUÂN NGUYỄN HUỲNH ĐỨC TRỊ TỘI; SỰ TÍCH MIẾU ÔNG GỐC VÀ BẾN TRƯỜNG ĐỔI; VƯỜN TRẦU DẤY NGHĨA; PHAN XÍCH LONG HOÀNG ĐẾ; ĐỨA CON THỨ 13 CỦA ĐỨC PHẬT…
+ TRUYỀN THUYẾT VỀ CHƯ TĂNG VÀ CÁC ÔNG ĐẠO
−TĂNG NGỘ; SƯ TỔ ĐỈA; CHUYỆN TÌNH NƠI CỬA PHẬT; BÀ BA NGỠI; SỰ TÍCH CHÙA TRÀ NỒNG; CHÙA THẦY THIẾM Ở NÚI SẬP; PHẬT THẦY TÂY AN; ÔNG ĐẠO LẬP; ÔNG CỬ ĐA; ĐẠO SĨ NÚI TÀ LƠN;; ĐẠO TƯỞNG; THÁI THƯỢNG HOÀNG MINH; NGƯƠN SOÁI NGUYỄN NGỌC ĐIỀN; ÔNG ĐẠO GÒ MỐI…..
Quyển 3: Giai thoại văn nghệ; Cố sự thời thuộc địa
Quyển 4: Truyện ngụ ngôn; Truyện cười; Truyện Trạng
Trích TỔNG QUÁT VỀ CỘI NGUỒN VÀ DIỆN MẠO
Nam bộ là vùng đất mới. Thời lượng lịch sử, tính đến nay chỉ trên dưới ba trăm năm là một trong những nhân tố quyết định xác lập những đặc trưng văn hóa của vùng đất này cũng như đặc điểm của văn học dân gian, trong đó có kho tàng truyện dân gian. Tuy nhiên, văn hóa Nam bộ lại không mới nếu hiểu theo nghĩa nó không phải bắt đầu từ con số không mà là sự phát triển những truyền thống văn hóa cổ xưa của dân tộc ở một không gian mới có những điều kiện tự nhiên và lịch sử – xã hội cụ thể. Chính vì vậy nên chúng ta có thể tìm thấy được những di tích các mẫu đề xa xưa trong kho tàng truyện dân gian ở đây.
Trong Gia Định thành thông chí, sách viết hồi đầu thế kỷ XIX, khi nói về núi Bà Dinh/Bà Đen (tức núi Điện Bà, Tây Ninh), tác giả Trịnh Hoài Đức có chép lời tục truyền về việc “trông thấy cái chuông vàng nơi đáy hồ giống như việc cái khánh ở sông Tứ, cái chuông thấy được ở sông Giang, nhưng đến gần thì biến mất. Lại có đêm trời quang mây tạnh, thấy có thuyền rộng bơi lượn, hát múa du dương, lại thấy con rùa vàng lớn hơn một trượng bất thời bơi lặn trong hồ”. Truyền thuyết này khiến cho chúng ta liên tưởng đến cái chuông nằm dưới đáy Hồ Tây, đến con rùa ở Hồ Hoàn Kiếm của đất Thăng Long và dường như con rùa đây cũng là hồi quang của con rùa vàng – thần Kim Qui, trong truyện Mỵ Châu – Trọng Thủy... Và rồi, ở truyền thuyết mang tính chất từ nguyên địa danh dân gian về tên gọi sông Cổ Chiêng cũng thấy dấu ấn của mẫu đề “cái chuông chìm dưới nước” và trong những khoảng khắc thiêng liêng của trời đất, cái “Chiêng Cổ” ấy lại vang lên, dội vào lòng người dân miệt hạ lưu sông Cửu Long. Trường hợp tương tự là truyền thuyết về các đại đồng chung ở Vĩnh Thành (Cái Mơn, Bến Tre), ở vùng Chợ Gạo (Gò Công, Tiền Giang), ở chùa Gò (tức Phụng Sơn tự, quận 11, thành phố Hồ Chí Minh)...
Lại nữa, nếu không bắt nguồn từ những mẫu đồ thần thoại về loài giao long, thủy quái, thuồng luồng xa xưa thì không có lý gì con sấu hung ác ở Bến Tre lại được gọi là... “Ông Luồng sông
Tiên Thủy”. Tương tự đây đó, trong một số truyền thuyết, chúng ta lại gặp cái nón có phép đưa chủ qua sông (Thầy Trung ở Cần Thơ, Bà Thầy ở Bến Tre...) giống chiếc nón tu lờ của Không Lộ.
Lại có nhiều chuyện nhắc đến con trâu trắng có phép rẽ nước mà đi xuống thủy cung tương tự như các truyền thuyết kể về những người có tài bơi lặn, nhờ được cái lông trâu trắng trong kho tàng chuyện cổ tích truyền thống.
Phổ biến không kém là dấu vết về ông Khổng Lồ. Truyện ông Khổng Lồ cưới bà Nữ Oa làm vợ mà chúng ta đã biết, dường như có một phụ bản là Sự tích tảng đá trên cây dầu ở Trại Bí(Tây Ninh) và ở nhiều nơi, từ vùng núi non Long Thành – Bà Rịa đến Hà Tiên – Bảy Núi (Long Xuyên), đều có dấu chân ông Khổng Lồ. Như vậy, các mẫu đề thần thoại đã được bảo lưu, nhưng cũng đã biến đổi đi rồi. Sự việc tảng đá nằm trên cháng ba cây dầu ở Trại Bí thì ai cũng biết là do cây dầu ấy thoạt đầu thì mọc dưới tảng đá và rồi những nhánh của nó, theo thời gian tăng trưởng, nâng tảng đá ngày một lên cao. Nhưng sự thật là sự thật. Còn dân gian thì họ suy nguyên theo kiểu khác là gán việc ấy cho ông Khổng Lồ, theo tâm thức truyền thống: đó là một con người to lớn, có sức mạnh dời non lấp biển. Còn dấu chân ông Khổng Lồ là hình lõm giống một dấu chân lớn in sâu trên đá núi thế thôi, cũng như ngược lại dấu chân bé nhỏ in trên đá là dấu chân tiên ở núi Chơn Tiên (Bà Rịa). Các giải thích này coi ra kiểu cách giống như các bàn thờ tiên trên các cụm núi ít ỏi ở miền đất này. Cách lý giải như vậy là sự suy nguyên giản đơn: cái gì không phải do con người làm ra thì được gắn cho là do các đấng siêu phàm tạo nên. Dấu chân ông Khổng Lồ chỉ là mẩu chuyện nhỏ. Ở đây chúng ta không tìm ra được tình tiết thần kỳ nào liên quan nhân quả với dấu chân trên đá ấy, chẳng hạn như hành trạng của ông Khổng Lồ, hay một sự cảm ứng thụ thai của một phụ nữ nào đó vô tình ướm bàn chân mình lên dấu chân đó để rồi sinh ra một anh hùng siêu tuyệt...
Nói chung những mẫu đề thần thoại cổ xưa có xuất hiện đây đó trong các truyền thuyết, nhưng không nhiều và cũng không phát triển thành những sự tích hoàn chỉnh theo kiểu cách truyền thống. Chúng tồn tại như những mảnh vụn rời rạc hoặc được tích hợp vào các sự kiện này nọ nhằm suy nguyên những hiện tượng bất thường, kỳ dị hay giải thích một địa danh.
Nhiều tác giả - Huỳnh Ngọc Trảng (chủ biên)
Sưu tầm và biên soạn: Nguyễn Thanh Lợi, Lê Hải Đăng, Lê Hồng Hải, Trần Đức Anh Sơn, Trần Tuấn Anh, Nguyễn Thế Sang
Đồng dao và trò chơi truyền thống
Từ thuở xa xưa, trò chơi dân gian có vai trò và ý nghĩa rất quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta. Những trò chơi truyền thống gắn bó sinh động với đời sống thường nhật, lao động sản xuất, phong tục tập quán…, của người dân Việt Nam từ miền núi cao đến miền đồng bằng, duyên hải…
Phần lớn các trò chơi đều có mặt trong hầu hết các môi trường sinh hoạt, kể cả một số lễ hội. Những trò chơi dân gian chính là vòng tròn văn hóa vô hình gắn kết cộng đồng, thu hút rất đông người già - trẻ, nam - nữ tham gia và cổ vũ. Bên cạnh những trò chơi mang dấu ấn riêng của từng dân tộc, rất nhiều trò chơi mang tính phổ biến hoặc có đôi chút biến tấu để phù hợp với đặc trưng vùng miền. Trò chơi dân gian không đơn thuần là những trò vui tiêu khiển mà nó chứa đựng những giá trị văn hóa. Chính sự đa dạng phong phú, ý nghĩa thẩm mỹ - nghệ thuật, và tính kết nối cộng đồng của nó đã tạo nên những nét đẹp trong bản sắc văn hóa từng vùng miền nói riêng, của dân tộc nói chung.
Trò chơi dân gian dành cho trẻ em thường bắt nguồn từ những bài đồng dao, một loại văn vần tự do, ngắn hay dài tùy theo đặc điểm yêu cầu của trò chơi hoặc lặp đi lặp lại không dứt. Mỗi bài đồng dao đề cập nhiều thứ, có vẻ như ngô nghê, không gom vào một chủ đề nào và cũng chẳng biểu ý khen chê sự việc nào cả. Chúng mang sự hồn nhiên và tinh thần rất vô tư của trẻ con, những bài đồng dao cuốn hút những đứa trẻ cùng hát, cùng cố gắng chơi hết mình. Điều chủ yếu không phải là thắng mà là được chơi, được tham gia. Những bài đồng dao ấy đã hấp dẫn bao thế hệ trẻ thơ và đi vào ký ức của biết bao người dân Việt.
Trong tập sách này chủ yếu giới thiệu đến:
- CHƠI & TRÒ CHƠI VÀ PHONG HÓA
- SƯU TẬP TRÒ CHƠI
- TRÒ CHƠI VĨNH PHÚ
- TRÒ CHƠI HÀ BẮC
- TRÒ CHƠI HÀ NỘI
- TRÒ CHƠI BẮC GIANG
- TRÒ CHƠI HẢI PHÒNG
- TRÒ CHƠI NGHỆ TĨNH
- TRÒ CHƠI THỪA THIÊN - HUẾ
- TRÒ CHƠI PHÚ YÊN - KHÁNH HÒA
- TRÒ CHƠI NAM BỘ
Hiện nay, nhiều địa phương trong cả nước trong chủ trương khai thác thế mạnh du lịch, đã chú ý khôi phục lại các lễ hội truyền thống, tổ chức nhiều trò chơi dân gian. Nhiều trường học đã chọn đưa trò chơi dân gian lồng ghép vào chương trình giáo dục.
Sưu tầm và hệ thống lại những trò chơi truyền thống và những bài đồng dao là một việc làm góp phần bảo tồn, lan tỏa các giá trị văn hóa cổ truyền Việt Nam. Cũng từ ý nghĩa đó, Nhà xuất bản Văn hóa - Văn nghệ xuất bản ấn phẩm Đồng dao và trò chơi truyền thống. Ấn phẩm do nhóm tác giả sưu tầm và biên soạn, nhà nghiên cứu Huỳnh Ngọc Trảng chủ biên. Qua cuốn sách này, bạn đọc có thể hiểu rõ hơn, sâu sắc hơn về nguồn gốc, ý nghĩa của rất nhiều trò chơi dân gian và bài đồng dao ở nhiều vùng miền trên đất nước Việt Nam.
Trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Nhà xuất bản Văn hóa – Văn nghệ
Trong lịch sử, hoạt động chơi đùa và trò chơi là một bộ phận sinh động của phong hóa và chúng có vai trò quan trọng trong đời sống văn xã. Một là các trò chơi dân gian và truyền thống gắn với hoạt động lễ hội - thậm chí là không ít trò chơi là hình thức thực hành nghi lễ. Chính vì vậy trò chơi và trò diễn nghi lễ phong tục là không phân biệt rạch ròi. Mặt khác, trong trường kỳ lịch sử, dân tộc ta chủ yếu là sản xuất nông nghiệp, do đó hoạt động vui chơi luôn gắn với hoạt động hội mùa có tính chu kỳ. Đánh dấu sự bắt đầu hay chấm dứt của các hoạt động sản xuất, theo đó, thời khóa vui chơi đan xen với nông lịch. Đặc điểm thứ ba là do hội đồng của làng xã quy định nên xu hướng chung là các trò chơi phát triển theo con đường công cộng hóa và đồng thời nó tích hợp với các hình thức ca, nhạc, múa, trò diễn để trở thành nhiều hình thức diễn xướng tổng hợp. Hơn nữa, cũng do gắn bó với cộng đồng nên các định chế xã hội đã ảnh hưởng đến các quy tắc, lề luật chơi. Nổi bật là trong luật thi đấu, thi tài luôn mang tính chất phe giáp, thôn xóm hoặc cố kết theo các ảnh hưởng nhất định đến nội dung và tính chất của từng hình thức chơi đùa… Đó là những đặc điểm chung các trò chơi dân gian và truyền thống của xứ ta.
Khởi đi là một huyện trong hai huyện của phủ Gia Định hồi cuối thế kỷ XVII và rồi qua nhiều đổi thay, Sài Gòn là xứ đô hội của vùng đất mới, là hòn ngọc Viễn Đông… Ở đấy, Sài Gòn là thành phố ngã ba đường vì đó là nơi cộng cư của nhiều dân tộc, rồi nối kết những luồng thông thương với khu vực và thế giới rộng lớn bên ngoài. Kéo theo đó là sự giao lưu không ngừng của những con người, những luồng văn hóa đa dạng. Chính vì vậy, nơi đây gánh lấy những thách thức của tình trạng thế giới hóa và trở thành phòng thí nghiệm của sự tiến bộ. Tuy vậy, mọi việc không phải diễn biến theo một chiều mà đó là một quá trình tiêu biểu cho cuộc đụng đầu lịch sử: tập trung những xung đột và giao lưu, những áp đặt và giải trừ, những áp bức và đấu tranh, những thất bại đau thương và những thắng lợi hào hùng, những thách thức của tình trạng thế giới hóa và nỗ lực bảo tồn phong hóa.
Rõ ràng là, trong hơn 100 năm qua, âm điệu phương Tây là âm điệu chủ đạo trong bản trường ca hiện đại, song sự đón nhận của các thế hệ cư dân bản xứ hoàn toàn không như nhau và đặc biệt những phản ứng từ thực tế đó đã nảy sinh ra những phong trào có đích và đường khác nhau, nhưng tất thảy đều có xu hướng dân tộc chủ nghĩa. Đây là điều kiện của truyền thống văn hóa còn được bảo tồn trong cộng đồng; tất nhiên không toàn vẹn mà là một cơ cấu văn hóa mang tính tổng hợp cũ - mới, tích hợp các thành tố nội sinh và các thành tố ngoại lai. Ở đó, cái mới đang trên đà ưu thắng và cái ngoại đang là xu thế thời thượng.
Chính vì vậy, công việc tìm hiểu di sản truyền thống ở Gia Định - Sài Gòn, từ lĩnh vực tín ngưỡng - tâm linh, văn học - nghệ thuật đến phong tục - tập quán vấp phải những trở ngại, trước hết là sự ít ỏi của nguồn tài liệu thư tịch liên quan và do vậy việc điều tra điền dã để thu lượm từ ký ức các bậc lão thành, từ lớp thế hệ cha ông là điều cần thiết. Xuất phát từ nhận định đó, trong những năm 1976 đến 1990, do yêu cầu của công việc biên soạn các bộ địa chí, tôi có cơ may đi rong ruổi đây đó và ghi chép thành một số bài viết dựa trên sự kết hợp những chỉ báo từ tài liệu thư tịch với những gì thu lượm được từ thực tế ở các huyện nội, ngoại thành Thành phố Hồ Chí Minh, mở rộng đến các tỉnh lân cận và nay tuyển chọn in chung vào một tập, lấy tên là Sài Gòn - Gia Định - Ký ức lịch sử - văn hóa.
Việc tuyển chọn để đưa vào tập sách này căn cứ theo tiêu chuẩn đủ - thiếu (các dữ liệu, thông tin), đúng - sai (về mặt học thuật) và hay - dở, xét một cách chủ quan về nội dung, cách thể hiện, tổ chức một bài viết. Mặt khác, trong dịp này, chúng tôi cũng sửa chữa, bổ sung một số chỗ, cốt cập nhật những gì xét thấy cần. Đây là sự tự đính chính những sai sót. Tất nhiên, việc đính chính đó không có nghĩa là đã sạch hết lỗi sai, tức sự hoàn hảo vẫn còn ở đằng xa - còn nhờ bạn đọc góp ý.
Đây là tuyển tập những bài viết đã đăng trên các báo, tạp chí từ những năm 1980 đến nay về những câu chuyện liên quan đến văn hóa, đặc biệt là các vấn đề có lúc trở thành thời sự. Do vậy, việc tuyển chọn, ưu tiên trước hết là các bài viết đến nay vẫn còn ý nghĩa và kế đó là những bài viết có nội dung còn coi được - theo đánh giá chủ quan của mình.
Nghìn năm bia miệng Tập 1 và Tập 2 là sưu tập công phu và tương đối đầy đủ về kho tang các sự tích và giai thoại dân gian được sáng tác, lưu truyền trong suốt hành trình hơn 300 năm khai phá, dựng xây và bảo vệ vùng đất phương Nam của Tổ quốc. Đó là những câu chuyện về buổi đầu lưu dân người việt đặt chân tới vùng đất hoang vu “ cỏ mọc thành tinh, rắn đồng biết gáy”. Những chuyện đánh cọp, diệt sấu, bắt rắn cho thấy tài trí và bản lĩnh của những người đi mở cõi; song song với đó là câu chuyện bầu cọp làm Hương cả giúp ta thấy được cuộc sống của ông cha thuở trước, vừa phải chống chọi vừa tìm cách thích ứng, hòa hợp với thiên nhiên khắc nghiệt…
Đọc Lại Cổ Tích
Truyện cổ tích được các thế hệ kể đi kể lại theo cách riêng của mình: hoặc thêm thắt hoặc gạn bỏ bớt để phù hợp với ngữ cảnh văn hóa của thời đại. Sự biến nội dung của mỗi câu chuyện cũng hệt như phương thức phát triển văn hóa: Tại mỗi tọa độ địa lý - lịch sử cụ thể, các cộng đồng luôn tích hợp các yếu tố nội - ngoại và tổng hợp mới - cũ để tạo nên một tổng thể văn hoá cho mình. Chính điều này đã làm cho mỗi câu chuyện có sức sống mới và trải qua thời gian, chúng trở thành một phức thể đòi hỏi người đọc phải kiến giải, phải giải mã cho những tình tiết cấu thành nội dung của nó.
Nói chung mỗi một cổ tích từ lâu đã được nhiều người, thuộc nhiều thế hệ, đọc đi đọc lại theo chiều khảo hướng khác nhau, đưa ra nhiều kiến giải lý thú. Ở tập sách Đọc lại cổ tích này là một cách đọc, một các hiểu theo chủ kiến của một người. Nói cách khác, các vấn đề được đưa ra xem xét, đối chiếu ở đây là… còn phải bàn và cần phải bàn cãi. Thành tâm thỉnh giáo.
Tải sách PDF tại TuSach.vn mang đến trải nghiệm tiện lợi và nhanh chóng cho người yêu sách. Với kho sách đa dạng từ sách văn học, sách kinh tế, đến sách học ngoại ngữ, bạn có thể dễ dàng tìm và tải sách miễn phí với chất lượng cao. TuSach.vn cung cấp định dạng sách PDF rõ nét, tương thích nhiều thiết bị, giúp bạn tiếp cận tri thức mọi lúc, mọi nơi. Hãy khám phá kho sách phong phú ngay hôm nay!
Sách kỹ năng sống, Sách nuôi dạy con, Sách tiểu sử hồi ký, Sách nữ công gia chánh, Sách học tiếng hàn, Sách thiếu nhi, tài liệu học tập